Đăng nhập

Cổng TTĐT Xã Phạm Kha - Huyện Thanh Miện

23/4/2023  |  English  |  中文

Di tích, danh thắng - Xã Phạm Kha

​​

1. Đình Đỗ Lâm Thượng:

Đình Đỗ Lâm Thượng xã Phạm Kha thờ thành hoàng làng Lý Trí Thắng, người đã có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, thống nhất đất nước ở thế kỷ thứ X. Khi mất ông được phong “Đương cảnh Thành Hoàng", cho phép xã Đỗ Tùng (nay là Đỗ Lâm Thượng và Đỗ Lâm Hạ) phụng thờ. Đến các triều đại sau đều được ban sắc phong, hiện tại còn lưu giữ được 4 đạo sắc:

- Tự Đức lục niên thập nhất nguyệt thập nhất, tức ngày 10 tháng 11 năm Tự Đức thứ 6(1853).

- Tự Đức tam thập niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật, tức ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (1880).

- Duy Tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật, tức ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 (1909).

- Khải định cửu niên thất nguyệt thập nhị thập ngũ nhật, tức ngày 25 tháng bảy năm Khải Định thứ 9 (1924).


Đình Đỗ Lâm Thượng được khởi dựng từ sớm, trải qua mưa nắng đến nay Đình đã được trùng tu, nâng cấp các hạng mục công trình đã xuống cấp nghiêm trọng. Ngôi Đình hiện nay có niên đại vào Triều Nguyễn. Thời Thành Thái và Khải Định, đình tọa lạc trên khu đất cao, có khung cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ. Kiến trúc ngôi Đình được xây dựng theo kiểu “Tiền nhất hậu đinh" gồm 3 tòa nhà chính: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung; mặt tiền hướng tây nam, phía trước có hồ nước rộng.

          Tòa tiền tế được xây dựng vào mùa xuân năm Canh Thân, niên hiệu Khải Định thứ 5 (1920). Ngôi đình gồm 5 gian, 2 dĩ còn khá chắc chắn được tạo dựng bởi các chi tiết như: Bẩy, cột quân, cột cái, các con thuận, câu đầu trụ, các con vành, hệ thống xà thượng. xà quân, chồng nóc, hoành, dui,…các vật dụng đều được làm bằng gỗ lim; Các chi tiết đều trạm rồng, hoa lá và long quân. Các bức trạm trên đầu bẩy, đầu dư, mảng cốn đều là những nghệ thuạt có giá trị. Phần nề ngõa khá tinh tế và hoàn chỉnh từ mái, bờ nóc, bờ chảy, các đầu đao có những phù điêu hình rồng phượng, nghê rất sinh động.

          Tòa trung từ và Hậu cung được khởi dựng từ năm Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái thứ 7(1895). Trung từ gồm 5 gian, 2 dĩ, hậu cung 3 gian kiến trúc được thiết theo kiểu chữ Đinh(T). Toàn bộ phần mộc của tòa này được sơn son thiếp vàng và hình rồng mây trên hệ thống cột cái, các bức trạm khắc có nét sơn son rất kỳ công. Trong tòa trung từ nổi bật là 4 bức cốn tại gain trung tâm; bên ngoài có các tích tứ: (Long, Ly, Quy, Phượng) còn chạm kahcws một số con vật thường gặp ở đồng quê như: Ếch ngồi lá chang, Ếch ăn cua,…Phần nề ngõa của Trung từ có bờ mái và các góc đao, các bức phù điêu hình rồng, phượng tinh tế, mang đậm nét tín ngưỡng dân gian. Đình còn được bảo tồn được các hệ thống cổ vật phong phú, nhất là đồ gỗ như: Long đình, bát cửu, nhang án, đảo đao, cau đối, đại tự, cửa võng, sập thờ, kiệu bát cống, khám thờ với 49 hiện vật…các hiện vật đều được sơn son thiếp vàng, chạm khắc từ thời Nguyễn. Ngoài đồ gỗ, đình còn lưu gữi được khá nhiều cổ vật bằng Đồng, sứ, đồ giấy và đồ vải có giá trị nghệ thuật cao.

          Trong kháng chiến chống thực dân Pháp - Nhật, đình Đỗ Lâm Thượng là nơi Việt Minh tập chung nhân dân mít tinh đi phá kho thóc của Nhật, đây cũng là nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng của tỉnh Hải Dương. Nơi đóng quân của Đại đội Lý Thường Kiệt, bộ đội tỉnh năm 1951 và sau đó là trường cấp 2 của tỉnh. Trong kháng chiến chống mỹ(1972), đình còn là nơi đóng quân của đơn vị bộ đội Hoàng Ngân trước khi lên đường vaopf chiến trường miền nam chiến đấu; Năm 1973 là trường an dưỡng của tỉnh, sau đó là kho thóc của Nhà nước.

          Với giá trị lịch sử văn hóa độc đáo, đình Đỗ Lâm Thượng được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử- văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 12/02/1999./.

          2. Đình Đỗ Lâm Hạ:

          Đình Đỗ Lâm Hạ được khởi dụng từ thời Lê và trùng tu vào thời Nguyễn. Đình được thiết kế và xây dựng kiến trúc đồng bộ, chắc chắn có nhiều mảng chạm khắc, phù điêu tinh xảo. Đình Đỗ Lâm Hạ có kiến trúc cơ bản như đình Đỗ Lâm Thượng và cùng thờ thành hoàng làng Lý Trí Thắng- người con xã Đỗ Tùng ở thế kỷ thứ X.


          Đỗ Lâm Hạ và Đỗ Lâm Thượng thời nhà Lê gọi là xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Từ năm 1599, khi Trịnh Tùng xưng chúa (Thành Tổ Triết Vương) thì các địa phương có chữ “Tùng" vì phạm úy nên đều pahir đổi tên. Xã Đỗ Tùng đổi thành Đỗ Lâm. Năm Gia Long thứ nhất (1802), thành lập các tổng thuộc huyện. Xã Đỗ Lâm nằm trong tổng Đoàn Lâm huyện Gia Lộc. Năm 1902, tổng Đoàn Lâm nhập về huyện Thanh Miện. Cuối thế kỷ thứ XIX, xã Đỗ Lâm tách thành 2 thôn: Đỗ Lâm Thượng và Đỗ Lâm Hạ. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Đỗ Lâm thuộc xã Duy Tân; năm 1947, đổi tên gọi là xã Phạm Kha thuộc huyện Thanh Miện.

          Với giá trị lịch sử văn hóa độc đáo, đình Đỗ Lâm Hạ được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 19/01/2001./.

          3. Đình Đạo Phái (Năm 2019 sát nhập thành Đạo Lâm).

          Đình làng Đạo Phái thờ vị thành hoàng làng Trần Thiện Hữu mang tên “Quốc tế từ", tiền thân của đình là một ngôi đền nhỏ, đơn sơ. Theo văn bia thần tích thì đền được tôn tạo vào năm Tự Đức thứ 8 (1855), sau đó nhân dân đã đóng góp xây dựng ngôi đình, gồm 5 gian và 2 dãy giải vũ. Ngôi đình được khánh thành vào ngày 11 tháng chạp năm Ất Mùi, niên hiệu Duy Tân thứ 9 (1915). Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, quân Pháp đã phá hai dãy giải vũ lấy vật liệu về làm bốt Thọ Trương.


          Đình làng Đạo Phái, thôn Đạo Lâm được xây dựng thiết kế theo kiểu chữ “Tam" (≡) gồm 5 gian đình ngoài, 3 gian đình giữa và 1 gian hậu cung. Nghệ thuật chạm khắc tập trung chủ yếu ở đình ngoài. Các vì kèo đều làm theo kiểu con chồng đấu sen, các con chồng được chạm khắc rất tinh xảo, cầu kỳ, mỗi mặt mỗi kiểu dáng hoa văn khác nhau như trúc hóa long, long quần, phượng ngậm cuốn thư…

          Tượng thành hoàng Trần Thiện Hữu được sơn son thếp vàng đặt trong khám thờ giữa hậu cung. Đình còn lưu giữ được một số cổ vật gồm: 12 đạo sắc phong, 2 cuốn thần phả, 1 bát cống, 1 kiệu long đình, 1 khám thờ và 4 bia đá, trong đó có 1 bia thần tích hình nón khắc dựng năm Tự Đức thứ 8 (1855).

          Đình làng Đạo Phái còn gắn liền với 2 di tích có liên quan, đó là Chùa Đan Hà và miếu thờ Trần Thiện Hữu. Theo thần tích, Chùa Đan Hà là nơi cư ngự của Lý Thái Bà trước khi sinh ra Trần Thiện Hữu.Chùa được xây dựng từ thời hậu Lê, tọa lạc trên khu đất cao về phía tây bắc thôn Đạo Lâm cách Đình khoảng 500m, kiến trúc Đình chữ “ đinh" (T) phần ngoài 5 gian, hậu cung (Tam bảo) 3 gian. Chùa được trùng tu vào năm 1903. Phía sau chùa có phần mộ của Lý Thái Bà, xung quanh mộ có tường xây bao bọc, phần chính mộ bằng đá hình tháp gồm 3 phần cao 0,8m.

          Ngày 23/01/1997, Đình làng Đạo Phái được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia./.